Biên dịch đôi lúc gặp những lời chúa Giê Su dạy trong nghi lễ kết hôn, dưới đây là những lời dạy của chúa Giê Su được tóm tắt và lấy từ trên mạng để chúng ta tiện tham khảo.
Gospel / Phúc Âm
2 And Pharisees came up and in order to test him asked, “Is it lawful for a man to divorce his wife?”
2 Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người.
3 He answered them, “What did Moses command you?”
3 Người đáp: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”
4 They said, “Moses allowed a man to write a certificate of divorce, and to put her away.”
4 Họ trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”.
5 But Jesus said to them, “For your hardness of heart he wrote you this commandment.
5 Đức Giêsu nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông.
6 But from the beginning of creation, ‘God made them male and female.’
6 Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ;
7 ‘For this reason a man shall leave his father and mother and be joined to his wife,
7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
8 and the two shall become one flesh.’ So they are no longer two but one flesh.
8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
9 What therefore God has joined together, let not man put asunder.”
9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
10 And in the house the disciples asked him again about this matter.
10 Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy.
11 And he said to them, “Whoever divorces his wife and marries another, commits adultery against her;
11 Người nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình;
12 and if she divorces her husband and marries another, she commits adultery.”
12 và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”
13 And they were bringing children to him, that he might touch them; and the disciples rebuked them.
13 Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng.
14 But when Jesus saw it he was indignant, and said to them, “Let the children come to me, do not hinder them; for to such belongs the kingdom of God.
14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.
15 Truly, I say to you, whoever does not receive the kingdom of God like a child shall not enter it.”
15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”
16 And he took them in his arms and blessed them, laying his hands upon them.
16 Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.
Interesting Details / Chi tiết hay
(v.4) Jesus explains the intention of the law on divorce. Accepting that divorce was a common custom, Moses’ law sought to protect the wife from abuse. The ‘certificate of dismissal’ was a public proof that the wife was free from obligations to her husband, and could remarry.
(c.4) Chúa Giêsu giải thích về luật ly dị. Luật Môsê đựợc dùng để bảo vệ người đàn bàvào thời mà tục ly dị rất thịnh hành. Giấy phép ly thư là để chứng nhận người vợ không còn lệ thuộc vào người chồng, và có thể lấy chồng khác.
(vv.6-9) Jesus goes beyond Moses and uses the Genesis passage “in the beginning of creation” to explain God’s original intention. In creating male and female, God intended marriage to be for one man and one woman, an indissoluble union (“the two become one body”). This union is also unbreakable because God is the author (v. 9). In these few verses, Jesus challenges spouses to live faithfully and united until death.
(cc.6-9) Chúa Giêsu trích một đoạn trong sách Khởi Nguyên trước thời ông Môsê, “thuở ban đầu của trời đất”, để giải thích ý định của Thiên Chúạ Khi tạo ra nam và nữ, Thiên Chúa muốn hôn nhân là một sự kết hợp không thể phân ly giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Một sự kết hợp vững chắc vì chính Ngài tạo nên luật này (c. 9). Trong câu này, Chúa Giêsu khuyến khích các cặp vợ chồng sống kết hợp và chung thủy với nhau cho đến chết.
(v.11) In Jewish law, a man could only commit adultery against another man, i.e., if he has relations with the other man’s wife. He could not commit adultery against his own wife. Jesus, revolutionary for his times, is explicit that a sin is committed “against her” when a man divorces his wife. He elevates the woman to the real equality of the man.
(c.11) Trong luật Do Thái thời đó, người đàn ông phạm tội ngoại tình thì có lỗi với chồng của người đàn bà chứ không có lỗi với vợ mình. Điều này nói lên việc trọng nam, khinh nữ. Chúa Giêsu thì khẳng định rằng người đàn ông lỗi phạm khi ly dị vợ mình. Ngài đã nâng người nữ lên ngang hàng với người nam.
(vv.13-14) Mark describes a lively scene here. Children are brought to Jesus, “to have him touch them,” an act of blessing. The disciples argue against this, probably reflecting the ancient view of children as unimportant. Jesus, in turn, rebuffs his disciples. This passage points out how the disciples continue to misunderstand Jesus.
(cc.13-14) Thánh Maccô tả một cách sống động cảnh những đứa nhỏ được mang tới cho Chúa Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng và ban phép lành. Các môn đệ đã ngăn cản có lẽ vì thời đó trẻ nhỏ không được coi là quan trọng. Chúa Giêsu đã phải sửa dạy các ông. Đoạn này cho thấy các môn đệ vẫn còn hiểu lầm Chúa Giêsu.
(vv.14-15) In asking us to receive his teaching like a child, Jesus invites us to look within and realize our own human helplessness. Like a child, we must recognize our lack of power, and thus with open hearts, receive God’s teachings as a gift. Children accept the gift of the kingdom in a way adults do not–they receive with total trust.
(cc.14-15) Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy đón nhận lời Người với tâm tình của một trẻ nhỏ, Ngài kêu mời chúng ta hãy nhìn lại bản thân để thấy sự yếu đuối của mình. Khi nhìn nhận mình tầm thường, chúng ta sẽ có thể mở lòng mà đón nhận lời Chúa như món quà. Khác với những người lớn, các trẻ em đón nhận Nước Chúa với tất cả lòng tin.
One Main Point / Một Điểm Chính
God, who is Love, defines for us–created in His image–what love is. It is the giving up of one’s self, as in a marriage, “so they are no longer two but one body.” It is the trust and hope present in every child’s heart.
Thiên Chúa, là Tình Yêu, đã giải thích cho chúng ta, những đứa con được dựng lên theo hình ảnh Ngài, thế nào là tình yêu. Tình yêu là cho đi chính mình, như trong hôn nhân, khi hai người không còn là hai mà là chỉ là một.
Reflections / Suy Niệm
What teachings of Christ am I struggling with right now? Can I trust Him enough to follow His way, even if , currently, I lack understanding?
Tôi đang gặp khó khăn với những lời dậy bảo, hay lề luật nào của Chúa Giêsu? Tôi có thể tin tưởng Ngài đủ để theo Ngài, mặc dù hiện nay tôi vẫn chưa hiểu?
Reflecting on my childhood, how happily dependent I was on my parents, and how I eagerly awaited their gifts, I ask God to restore that attitude to me. So that with open heart, I trust His teachings; I trust that they will lead me to my true and everlasting happiness.
Tôi nhớ lại thời thơ ấu của chính tôi, khi tôi vui sướng mà được lệ thuộc vào cha mẹ. Và lúc đó, tôi trông chờ những món quà từ cha mẹ biết bao. Tôi xin Chúa cho tôi được có cùng tâm trạng đó đối với Ngài. Xin cho tôi tin tưởng vào những dậy dỗ của Ngài: tin rằng những dậy dỗ ấy sẽ đưa tôi đến hạnh phúc thật và mãi mãi.